13 ngày nữa . Chúc đại hội võ lâm A74 mỹ mãn .
Không đến được , lòng thấy tiếc tiếc . Đọc lại bài : Những đêm thơ với Đặng Đình Đức của Nguyễn Sỹ Hanh :” Thiên hạ mang mang ai người tri kỷ . Lại đây cùng ta cạn một Hồ trường” . Nhớ Trần Viết Hiếu , hẹn ngày về Đà Nẵng cùng nhau cạn chén Hồ trường . Nhớ ngày xưa bạn bè của ông già tụ tập lại là ui thui tới bến luôn , lại còn ngâm thơ hát xướng nữa chứ! thật thích !Được nghe lóm bài thơ Hồ Trường của cụ Nguyễn Bá Trác ,nó phóng khoáng , hào sảng , buồn buồn sâu lắng làm sao ấy!
Người ta thích đem thơ cụ mà đê mê với chén rượu ,giải sầu , phẩn chí , thật tội nghiệp cho cụ . Đâu biết rằng trong cái hào sảng ấy là nổi đau xé ruột(tui nghĩ vậy).
…..Trăm năm thân thế bóng tà dương.
…………
Cái khí chất của bài thơ , cái thân phận của cụ mãi theo tui , cứ làm tui ray rứt , muốn “buông bỏ “đi , mà sao chẳng được.(Bắt chước Ngọc Anh)
Lần lữa miết chẳng muốn đề cập đến nữa .Tình cờ được nghe Tống Hữu Hạnh ngâm bài thơ này trên Youtue , và lại Tôn nữ lệ Ba nữa chứ! Trong lòng lại cứ bực rực . Thôi thì viết ra đây , đem ra đây , chia sẻ với các bạn , trút bớt gánh cho các bạn .May đâu tui sẽ thấy lòng nhẹ nhàng hơn.
12 ngày nữa . Chúc đại hội võ lâm A74 mỹ mãn.
Hôm qua đang viết lở dở thì bị lôi đi uống Rugovina , không cách gì từ chối được.Rứa mà lại hay ! Có dịp ngộ cố nhân thử cái cảm giác của “cạn Hồ Trường “.Chừ chép (có nhiều dị bản) – các bạn đọc cho vui:
HỒ TRƯỜNG*
(Bản này Tống Hữu Hạnh ngâm , còn một dị bản tuy sai khác không nhiều do Tôn Nữ Lệ Ba ngâm , & do con gái của ông cung cấp, in tải lên ở cuối bài)
Đại trượng phu đã không hay xé gan(1) bẻ cột(2)
phù cương thường(3)
Sao lại tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương
Trời Nam nghìn dặm thẳm
Non nước một màu sương
Học không thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát,
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang
ai là tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! ha! ha! Ha! Hồ trường!
Ta biết rót về đâu
Rót về Bắc phương,
ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá dương
Rót về Đông phương,
nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương,
mưa Tây sơn từng trận chứa chan
Rót về Nam phương,
trời Nam mịt mù có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, náo ai say
chí ta ta biết,
lòng ta ta hay
Nam nhi chí tại ở hồ thỉ(4)
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
Nguyễn Bá Trác
(Xin xem thêm: NGUỒN GỐC BÀI THƠ HỒ TRƯỜNG)
Chú thích của người viết:
*Hồ trường : Nậm rượu , bầu rượu ( như thơ túi , rượu bầu).
(1) Cương thường : Tam cương (nghĩa vua tôi, cha con, vợ chồng) , Ngũ thường (Nhân , nghĩa , lễ , trí , tín) .Nói về đạo làm người..
(2) xé gan : theo điển tích Văn Tài thần Tỉ Can
Theo truyện Phong thần, Tỉ Can là chú của Trụ Vương đời Ân, là người trung nghĩa. Trụ Vương bạo ngược, hoang dâm vô đạo, si mê hồ yêu Đắc Kỉ – mà bỏ bê triều chính. Tỉ Can nhiều lần can ngăn mà có thù với Đắc Kỉ. Đắc Kỉ giả bệnh, lập mưu lấy trái tim bảy lỗ của Tỉ Can để làm thuốc. Trụ Vương lầm mê muội mà ép chết Tỉ Can. Vì thấy Tỉ Can trung chính vô tư, không thiên vị nên thương nhân vì đó mà phụng thờ.
(3) Bẻ cột: Chu Vân làm quan thời Hán Thành Đế, một hôm tâu vua: “Nay các đại thần, trên không phò chúa, dưới không giúp dân. Nếu được ban bảo kiếm, thần nguyện sẽ chém kẻ nịnh thần để răn chúng”. Vua hỏi chém ai? Vân tâu: “An Xương Hầu Trương Vũ”. Vua nổi giận phán:”Kẻ tiểu thần dám phạm thượng, tội chết không thể tha được”. Ngự sử cho bắt Vân. Vân ôm cột (có chổ cho là trèo lên xà ngang cung điện. Xà gẫy) , Cột bị vặn vẹo . vân kêu: “Thần chỉ mong được xé gan như Tỉ Can khi xưa là mãn nguyện, nhưng không biết Thánh Triều rồi sẽ ra sao?”
Tả Tướng quân Tân Khánh Kỵ, bỏ mão, rập đầu kêu xin cho Vân. Vua tha. Sau các quan đề nghị thay cây cột (xà) gẫy. Vua phán đừng thay, chỉ cho sửa lại, để ghi nhớ hành động quyết liệt của người trung thần.
(4) Hồ thỉ: Hồ: cây cung. Thỉ: cái tên. Thường nói: Tang bồng hồ thỉ: Cây cung làm bằng gỗ dâu, mũi tên làm bằng cỏ bồng. Tang bồng hồ thỉ là chỉ chí khí nam nhi, vẫy vùng ngang dọc.trong trời đất.
Có lẽ nghiệp dĩ và tâm trạng của con người có tài nhưng chán ngán trước cảnh đời, sinh bất phùng thời mới mượn hồ trường phả vào ý thơ cái hào khí ngất trời trước vận nước ” nỗi trôi”(ý tại ngôn ngoại) mà có người cho là ” đại ngông “.
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa.
(Kiều)
Danh sỹ Nguyễn Bá Trác sanh năm1881 tại làng Bảo An Điện Bàn Quảng Nam , đậu cử nhân năm 1906 , hưởng ứng phong trào Đông du ,Duy TÂn , năm 1908 ông theo đoàn du học sinh sang Nhật . Hiệp ước Pháp Nhật , Nhật giải tán du học sinh VN ông vòng sang Trung Hoa rồi trở về nước năm 1914.
-1914-1917 : chủ bút phần hán văn tờ công thị nhật báo.
-1917-1932(?) : chủ bút phần Hán Văn của Nam phong tạp chí .Do Phạm Quỳnh sáng lập (nên nhớ tờ Nam phong tạp chí (NPTC) đóng góp to lớn cho Tiếng Việt và nghề làm báo ở nước ta)
Sau đó ông làm Tá Lý Bộ Học ở Huế, Tuần Phủ ở Quảng Ngãi và Tổng Đốc Thanh Hóa, Bình Định. Tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, ông bị xử bắn ở Quy Nhơn (?), cụ Phạm Quỳnh (1892-1945) bị xử bắn ở Huế.(?)
Bài thơ bi mà hùng trên ông phóng tác từ một bài ca mà người ta gọi là ” Nam Phương ca khúc”(NPCK),ông nghe được từ một người bạn ở Thượng Hải – Hát theo giọng Quảng Đông năm 1912 trong những ngày luân lạc-So với NPCK thì theo tui ông gởi gắm vào đây một tâm sự đầy uẩn khúc ( có thể nói là xé lòng ). Trong nguyên tác dược dịch nghĩa của NPCK có câu :
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.
Còn phóng tác của ông :
Nào ai tỉnh, náo ai say
chí ta ta biết,
lòng ta ta hay
Nam nhi chí ở tại hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
Theo tui tâm sự ông ở chổ :chí ta ta biết , lòng ta ta hay.Có cái gì ông không thể nói ra được, không giải bày được . “Tình ngay , lý gian chăng?”. Nói ai nghe , ai hiểu ,ai thương ,ai cảm….Thôi đành……Nên nhớ ông tham gia phong trào Đông Du , Rồi về làm quan cho triều Nguyễn (ở xứ Trung Kỳ là xứ bảo hộ), làm cho NPTC là tạp chí dưới sự bảo hộ của Pháp .( Tui đọc được tài liệu không chính thức , cho rằng ông phản bội phong trào , chỉ điểm cho thực dân Pháp). Nhưng tui không tin vì với giọng thơ ấy , tâm sự ấy , làm thể nào có thể hành trạng ông mất nhân cách đến như vậy được. Với bài thơ này ông là một danh sỹ – nhưng ông không phải là một nhân vật của lịch sử,để người ta bỏ rất nhiều công sức cho ông- Khác với Cụ Phạm Quỳnh(PQ) chủ bút kiêm chủ biên tờ NPTC ( Ông và Cụ PQ Công đầu trong việc phát triển tiếng Việt ) , dần dà được minh oan , bởi cụ là con người lớn của lịch sử. Từ điển Văn học bộ mới (2004) coi cụ PQ là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước.
Có thể nào ông (NBT)không có một chút chí hướng nào với cụ Phạm sao?
Lại nên nhớ lại rằng ông được biết NPCK vào năm 1912 , và Phóng tác Hồ Trường năm 1920 ,sau những năm ông không còn trong Phong Trào Đông Du .
Nếu một ngày nào đó ! Tui được rỏ ràng như hai năm là mười , cụ là người như nghi ngờ trên , thì ui thui ! sụp đổ một….Còn ngược lại thì là một hoan lạc vô biên tràn ngập tâm hồn!
Xin chia sẻ cùng các bạn bài thơ Hồ Trường.
Qua giọng ngâm của Tống Hữu Hạnh :
Qua giọng ngâm của Tôn Nữ Lệ Ba:
Tài liệu tham khảo & sử dụng :
-Youtube
-Internet
-Các sách, tài liệu văn Học Việt Nam
Nguyễn Hoàng Minh
Quảng Nam 26/07/2009
Minh
Cám ơn Minh nhiều về hai bài viết về bài Hồ Trường.
H. thích bài thơ nhưng không biết nhiều về tác giả và background của bài thơ.
Lời buộc tội Nguyễn Bá Trác làm chỉ điểm cho Pháp không là chính thức. Mấy năm ông làm cho tờ Nam Phong cũng không phải là điều không tốt. Có lẽ lịch sử không rộng rãi với ông là vì cuối đời ông làm quan cho triều Nguyễn & Pháp.
Cũng không biết là ông Tổng Đốc sau cùng của Bình Định. Ghế Tổng Đốc Bình Định là một trong mấy ghế [i]lộn xộn[/i] nhứt trong thời Pháp thuộc!
H.